Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012

Công nghệ NFC

NFC là công nghệ kết nối không dây phạm vi tầm ngắn trong khoảng cách 4 cm, sử dụng cảm ứng từ trường để thực hiện kết nối giữa các thiết bị khi có sự tiếp xúc trực tiếp hay để gần nhau. NFC hoạt động ở dải băng tần 13,56 MHz và tốc độ truyền tải dữ liệu tối đa 424 Kbps. Do khoảng cách truyền dữ liệu khá ngắn nên giao dịch qua công nghệ NFC được xem là an toàn.
Công nghệ NFC ra đời từ sự kết hợp công nghệ nhận dạng không tiếp xúc và những công nghệ kết nối truy cập mới. NFC có 4 định dạng thẻ dựa trên các chuẩn ISO 14443 Type A, 14443 Type B và ISO 18092.

Công nghệ NFC có 2 chế độ truyền dữ liệu: chủ động (active) và thụ động (passive). Trong chế độ thụ động: thiết bị nguồn phát sẽ phát ra từ trường đến nguồn đích. Trong chế độ này, nguồn đích ở trạng thái bị động và chỉ trả lời khi nhận tín hiệu từ nguồn phát. Trong chế độ chủ động: cả thiết bị nguồn phát và thiết bị đích truyền dữ liệu bằng cách tạo ra từ trường riêng.

Hầu hết các ứng dụng hiện nay đều kết hợp cả 2 chế độ chủ động và thụ động, vì sẽ hữu ích cho các thiết bị trong việc truyền dữ liệu giữa các thiết bị không có nguồn điện, ví dụ các thẻ không tiếp xúc.

Mục đích chính dùng NFC:
  • Kết nối với các thiết bị điện tử.
  • Truy cập nội dung số, người dùng chỉ cần áp ĐTDĐ lên áp phích quảng cáo (có gắn thẻ sóng rađio – RF tag), lập tức người dùng sẽ nhận được các thông tin liên quan.
  • Giao dịch không tiếp xúc, ví dụ thanh toán, mua vé.
    NFC có khác biệt gì so với các công nghệ không dây khác?

    Bluetooth là công nghệ không dây được thiết kế để truyền dữ liệu đến các thiết bị như ĐTDĐ, máy tính xách tay và các thiết bị khác trong phạm vi 10 mét.

    ▪ Công nghệ Wi-Fi dành cho mạng nội bộ (LAN) cho phép mở rộng hệ thống mạng hay thay thế cho mạng có dây trong phạm vi khoảng 100 mét.

    ZigBee là công nghệ không dây có khả năng kiểm soát và giám sát các ứng dụng trong ngành công nghiệp và khu nhà ở trong phạm vi hơn 100 mét.

    IrDA là chuẩn liên lạc không dây tầm ngắn (<1 mét), truyền dữ liệu qua tia hồng ngoại. Giao diện IrDA thường được dùng ở các máy tính và ĐTDĐ.

    RFID là phương thức nhận dạng tự động, cho phép lưu trữ và lấy dữ liệu từ xa dựa vào thẻ nhãn tần số vô tuyến. Thẻ RFID được gắn kèm vào sản phẩm. Hệ thống RFID gồm hai thành phần: thẻ nhãn có gắn chip silicon cùng ăng-ten và phần thứ 2 là bộ đọc giao tiếp với thẻ nhãn và truyền dữ liệu tới hệ thống máy tính trung tâm.

    Thẻ thông minh không tiếp xúc (contactless smart card) tích hợp trong chip để truyền dữ liệu đến đầu đọc nhờ công nghệ RFID. Ví dụ, thẻ thông minh truyền dữ liệu qua chuẩn ISO/IEC 14443 và FeliCa trong phạm vi khoảng 10 cm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét